Những thành phần cơ bản tham gia thị trường Ngoại hối?
Bộ Phận Hỗ Trợ Online Nhà
Đầu Tư Mở Tài Khoản Kinh Doanh Vàng , Forex ( Ngoại hối ) Tại Forex.com . Liên
Hệ :
Tel : 093
8207 688
Yahoo messsenger :
Forex.com_Vietnam
Các ngân hàng trung ương
Các
ngân hàng trung ương tạo thành một nhóm riêng biệt trong số các thành
phần tham gia vào thị trường Ngoại hối. Chức năng của họ là phát hành
tiền, quản lý nền kinh tế và đảm bảo sự ổn định của đồng tiền quốc gia,
qua đó đảm bảo sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.
Bên
cạnh đó, một trong những chức năng quan trọng khác của một ngân hàng
trung ương trong một nền kinh tế thị trường là đảm bảo ổn định giá cả và
kiểm soát lạm phát. Trên đây là những lý do giải thích vì sao hành động
của một ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào cũng đều thu hút
sự chú ý của những người tham gia vào thị trường Ngoại hối. Ngân hàng
trung ương tác động tới thị trường Ngoại hối theo hai cách, trực tiếp
thông qua việc can thiệp vào đồng tiền hoặc gián tiếp thông qua xác định
lãi suất cơ bản. Ngân hàng trung ương có thể theo đuổi chính sách làm
tăng hoặc làm giảm giá trị của đồng tiền quốc gia, tùy thuộc vào thực
trạng của nền kinh tế và các yêu cầu về quản lý; đồng thời, có thể hành
động độc lập hoặc hợp tác với các ngân hàng trung ương khác trong khi
điều hành chính sách hối đoái hoặc tiến hành can thiệp trực tiếp vào
đồng tiền của quốc gia mình. Việc kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng
trung ương cung cấp ngoại tệ cho khu vực kinh tế nhà nước hoặc giúp thực
hiện các giao dịch đặc thù của bộ máy chính phủ (ví dụ, khi chuyển đổi
tiền, bán trái phiếu chính phủ, .v.v.), nó cũng mua và bán đồng nội tệ
cho các ngân hàng thương mại.
Phương
tiện quản lý chủ yếu của ngân hàng trung ương là lãi suất cơ bản. Lãi
suất này chính là lãi suất mà ngân hàng trung ương cho các ngân hàng
thương mại vay. Các ngân hàng thương mại cũng vay tiền của nhau theo lãi
suất cơ bản (hoặc gần mức lãi suất này). Sự thay đổi lãi suất cơ bản
cho phép điều chỉnh tình hình kinh tế của một quốc gia. Việc giảm lãi
suất cơ bản sẽ khuyến khích đầu tư (chi phí đầu tư bằng vốn vay giảm) và
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, việc tăng lãi suất
cơ bản lại giúp hạ nhiệt lạm phát. Lãi suất cao sẽ hạn chế giá cả tăng
cao. Lãi suất cơ bản là phương tiện điều hành kinh tế hiệu quả nhất
trong nền kinh tế thị trường.
Có
một vài loại lãi suất do ngân hàng trung ương đặt ra, nhưng lãi suất cơ
bản là chỉ số quan trọng nhất (Lãi suất điều hòa vốn dự trữ qua đêm của
Fed – Fed’s Fund Rate tại Mỹ; lãi suất REPO tại Liên minh Châu Âu).
Việc
các ngân hàng trung ương can thiệp trực tiếp vào tỷ giá đồng nội tệ rất
hiếm khi xảy ra. Để làm được việc đó với mục đích làm tăng hay giảm giá
trị của đồng nội tệ, ngân hàng trung ương trực tiếp tiến hành mua hoặc
bán đồng nội tệ trên thị trường. Ngân hàng trung ương buộc phải làm vậy
khi tỷ giá của đồng nội tệ vào thời điểm đó không phù hợp với tình hình
kinh tế và nếu để kéo dài có thể gây tác động tiêu cực. Việc can thiệp
có thể được tiến hành độc lập bởi một hoặc một vài ngân hàng trung ương
kết hợp với nhau. Sự can thiệp đồng thời của nhiều ngân hàng trung ương
phản ánh những biến động lớn về kinh tế, sự bất ổn về giá cả, những tin
đồn trái ngược và tình trạng đáng lo ngại trên thị trường.
Việc
can thiệp thường gây ra sự hoảng loạn và sợ hãi, nhưng đối với những
tay chuyên nghiệp thì đây cũng có thể là cơ hội kiếm lời nhanh chóng và
ít rủi ro. Các ngân hàng trung ương biết rằng yếu tố chính đảm bảo thành
công của một chính sách can thiệp là nó phải nằm ngoài dự đoán (đó là
lý do tại sao thông tin về những chính sách can thiệp trong tương lại
thường được giấu kín), nhưng nó phải thể hiện tác động đáng kể lên tỷ
giá hối đoái ngay sau khi được ban hành.
Một
trong những hành động can thiệp lớn nhất trong lịch sử là của ngân hàng
trung ương Châu Âu vào năm 2000- 2001 nhằm làm đồng euro tăng giá mạnh
trở lại ngay khi nó đạt mức thấp kỉ lục 0.85 euro ăn 1 đô-la. Ngân hàng
trung ương Nhật Bản cũng phải tìm đến giải pháp can thiệp trực tiếp vào
năm 2004 khi cố gắng hạ tỷ giá vốn đang rất cao của đồng Yên Nhật, điều
không hề có lợi đối với một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu như Nhật
Bản. Sự can thiệp được tiến hành trong vòng ba tháng kể từ khi đồng
tiền này chạm mức 101 Yên ăn 1 đô-la.
Cục
dự trữ Liên Bang Mỹ mà thực chất là một ngân hàng tư nhân (chắc nhiều
người sẽ cảm thấy vô cùng kinh ngạc về điều này), là định chế có ảnh
hưởng lớn nhất đối với thị trường Ngoại hối. Nó thể hiện những nguyên
tắc căn bản của nền kinh tế Mỹ, trong đó khu vực tư nhân luôn nhận được
sự hỗ trợ và bảo đảm từ phía chính phủ. Tuy nhiên, sự thực là hoạt động
của nó được quy định rất chặt chẽ để trở thành công cụ hữu hiệu của
chính phủ và lợi nhuận của nó đều được nộp vào ngân sách quốc gia.
Tất
cả các ngân hàng trung ương trên thế giới đều có các chức năng tương tự
nhau, tuy nhiên, vẫn có một vài trường hợp ngoại lệ. Điều quan trọng là
chúng ta phải hiểu cơ chế ra quyết định liên quan đến các loại lãi suất
cũng như dự đoán được quan điểm của những người đứng đầu các ngân hàng
trung ương, .v.v. Chúng ta sẽ cùng khám phá hoạt động của 8 ngân hàng
trung ương có ảnh hưởng nhất hiện nay.
Cục dự trữ Liên bang Mỹ
Cục
dự trữ Liên bang Mỹ là ngân hàng trung ương có ảnh hưởng lớn nhất thế
giới bởi trên 90% các hoạt động ngoại hối đều có liên quan tới các cặp
ngoại tệ có đồng đô-la. Ủy ban Các thị trường mở Liên bang (FOMC –
Federal Open Markets Committee) bao gồm 5 trong tổng số 12 vị chủ tịch
của các Ngân hàng dự trữ Liên bang khu vực và 7 thành viên của Hội đồng
thống đốc chính là cơ quan quyết định lãi suất của FED. Các cuộc họp của
FOMC diễn ra 8 lần trong một năm theo lịch trình đã được quyết định từ
trước. Quyết định về lãi suất và lý do khiến nó được thay đổi hoặc giữ
nguyên được công bố sau khi cuộc họp diễn ra. Thường thì lý do lại được
coi là quan trọng hơn bản thân quyết định về mức lãi suất vì nó cho phép
người ta dự báo những thay đổi trong chính sách của FED trong tương lai
cũng như những biến động lãi suất có thể xảy ra.
Mục
tiêu chiến lược của Cục dự trữ Liên bang là đảm bảo tăng trưởng kinh tế
và ổn định giá cả trong dài hạn. Theo luật Ngân hàng trung ương, hệ
thống dự trữ Liên bang Hoa Kỳ chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Điều
đó có nghĩa là ngân hàng này phải báo cáo các hoạt động của mình với Hạ
viện, một phần của Quốc hội Hoa Kỳ, một lần một năm và với Ủy ban Ngân
hàng quốc hội hai lần một năm. Tuy nhiên, Hội đồng thống đốc của cơ quan
này là không thuộc quyền kiểm soát của Quốc hội, và như vậy là mối ràng
buộc giữa nó và Quốc hội không hề chi phối hoạt động của nó. Ben
Bernanke đã thay thế huyền thoại Alan Greenspan vào tháng Một năm 2006
và điều hành Cục dự trữ Liên bang từ đó đến nay. Người đứng đầu Cục dự
trữ Liên Bang định kỳ báo cáo về tình hình kinh tế của đất nước cho
Thượng viện. Sau khi FOMC nhóm họp và quyết định lãi suất của FED được
công bố, chính nhân vật này sẽ là người đưa ra báo cáo đánh giá về tình
hình kinh tế cũng như những hành động mà Cục dữ trữ Liên bang có thể sẽ
thực hiện liên quan đến quá trình điều hành nền kinh tế. Hệ thống dự trữ
Liên bang không sở hữu vàng hay ngoại tệ để đảm bảo cho các khoản vay
hay các đợt phát hành tiền giấy của mình. Điều này có nghĩa là đồng
đô-la sẽ chỉ có thể được dùng để đổi lấy đồng đô-la mà thôi. Toàn bộ các
hoạt động hối đoái còn lại đều dựa trên thực tế là đồng đô-la Mỹ được
chấp nhận như đồng tiền cơ bản của thế giới.
Ngân hàng trung ương Châu Âu
Ngân
hàng trung ương Châu Âu, European Central Bank – ECB, được thành lập
vào năm 1998. Ngân hàng trung ương Châu Âu ra đời thay thế cho Cơ quan
tiền tệ Châu Âu (European Monetary Institute – EMI), tổ chức được thành
lập nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu vào năm
1999.
Mục
tiêu chung của ECB là đảm bảo tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định
giá cả của khu vực đồng Euro bằng cách đảm bảo tỷ lệ lạm phát dưới mức
2%. Tuy nhiên, Ngân hàng trung ương Châu Âu còn có một số đặc thù khác
so với Hệ thống dự trữ Liên bang Hoa Kỳ. ECB kiểm soát tỷ lệ lạm phát để
nó chỉ luôn ở gần mức 2% một năm, ngoài ra nó còn phải đảm bảo rằng
đồng euro không trở nên quá mạnh nhằm tránh ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu
bởi nền kinh tế của rất nhiều nước trong khu vực đồng Euro dựa chủ yếu
vào hoạt động này.
Các
quyết định liên quan tới chính sách tiền tệ, bao gồm quyết định mức lãi
suất cơ bản, nằm trong tay Hội đồng thống đốc và Ban điều hành của ECB.
Hội đồng thống đốc bao gồm sáu thành viên trong đó có Thống đốc và phó
Thống đốc. Ban điều hành bao gồm các thành viên trong ban giám đốc và
thống đốc của tất cả các ngân hàng trung ương của các quốc gia thuộc
Liên minh Châu Âu. Theo thông lệ, bốn trong số sáu thành viên hội đồng
thống đốc đều là đại diện của bốn ngân hàng trung ương lớn, bao gồm ngân
hàng trung ương Pháp, Đức, Italy và Tây Ban Nha. Các cuộc hội họp diễn
ra hai lần mỗi tuần, nhưng chúng thường diễn ra một cách hình thức và
không đi đến quyết định nào. Cuộc họp quyết định mức lãi suất cơ bản
diễn ra một lần mỗi tháng. Đây là một trong những sự kiện kinh tế quan
trọng và thu hút sự chú ý theo dõi của tất cả các thành phần tham gia
thị trường Ngoại hối. Sau khi nó kết thúc, một cuộc họp báo sẽ được tổ
chức, thống đốc ECB khi đó sẽ giải thích cụ thể lý do cơ quan này đưa ra
các quyết định về lãi suất, đồng thời dự báo tình hình chung cũng như
các xu hướng của nền kinh tế các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu.
ECB
theo đuổi chính sách tiền tệ bảo thủ. Việc lãi suất cơ bản của đồng
euro thay đổi rất chậm trong lịch sử của nó đã chứng minh điều đó. Ví
dụ, lãi suất cơ bản chỉ thay đổi có bốn lần trong suốt cuộc suy thoái
kinh tế diễn ra vào năm 2001, và ECB đã phải hứng chịu rất nhiều lời chỉ
trích từ phía các chuyên gia kinh tế vì việc đó. Cũng cần lưu ý rằng
ECB không muốn việc công bố lãi suất cơ bản trở thành sự ngạc nhiên đối
với công chúng; ngược lại, nó luôn muốn mọi người hiểu tính chất của
những thay đổi trong tương lại trước khi tiến đến việc chính thức công
bố những thay đổi này.
Trên
500 tỷ euro dự trữ bao gồm cả dự trữ vàng nằm dưới quyền kiểm soát của
ECB. Cựu thống đốc Ngân hàng trung ương Pháp Jean-Claude Trichet đã thay
thế đại diện của Đức Wim Duisenberg để trở thành Thống đốc đương nhiệm
của Ngân hàng trung ương Châu Âu kể từ tháng Mười Một năm 2003.
Ngân hàng Anh
Mục
tiêu chính của Ngân hàng Anh (Bank of England – BoE) là duy trì sự ổn
định và sức mua của đồng nội tệ. Giá cả ổn định và niềm tin vào đồng nội
tệ chính là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự ổn định tiền tệ, Sự
ổn định giá cả được đảm bảo bởi thực tế là tỷ giá do Ủy ban chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Anh quyết định, tùy theo mức độ lạm phát và chúng
tăng theo các mức do chính phủ đặt ra. Tỷ lệ lạm phát có thể chấp nhận
được là xấp xỉ 2%.
Ngân
hàng Anh được điều hành bởi Hội đồng thống đốc bao gồm một thống đốc,
hai phó thống đốc, và 16 giám đốc thành viên. Tất cả đều được bổ nhiệm
bằng một Sắc lệnh Hoàng gia sau khi đã được xem xét thông qua. Thống đốc
và hai phó thống đốc được có nhiệm kỳ là 5 năm, và các thành viên khác
được có nhiệm kỳ là 3 năm. Tất cả đều có thể được bổ nhiệm lại nhiều lần
sau khi kết thúc một nhiệm kỳ.
Hội
đồng thống đốc phải nhóm họp ít nhất một lần một tháng. Việc quản lý hệ
thống ngân hàng, trừ các vấn đề về chính sách tiền tệ đều thuộc phạm vi
công việc của Hội đồng thống đốc. Ủy ban chính sách tiền tệ (Moneytary
Policy Committee – MPC) chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến
chính sách tiền tệ.
Thống
đốc ngân hàng Anh cũng đồng thời là người đứng đầu ủy ban này. Các
thành viên khác được chọn ra từ những nhà kinh tế học có danh tiếng chứ
không phải nhân viên của Ngân hàng. Ủy ban chính sách tiền tệ chịu trách
nhiệm xác định các mức lãi suất chính thức kể từ năm 1997.
Mervyn
King hiện là thống đốc Ngân hàng Anh. Quyết định về mức lãi suất cơ bản
được đưa ra thông qua việc công bố kết quả bỏ phiếu. Ví dụ, kết quả bỏ
phiếu được công bố là 7:2 có nghĩa là 7 thành viên đồng ý thay đổi lãi
suất cơ bản còn 2 thành viên còn lại không đồng ý. Kết quả bỏ phiếu cho
thấy quan điểm của các thành viên Ủy ban. Sự thay đổi về tỷ lệ các thành
viên ủng hộ và phản đối sẽ cho thấy xu hướng của những thay đổi lãi
suất trong tương lai. Chính sách quản lý thành công của Ngân hàng trung
ương Anh còn được được nhắc đến với cái tên Goldilocks (chỉ mọi thứ đều
vừa và đủ) (ý nói các chính sách quản lý kinh tế cho phép tăng trưởng
đều đặn cùng với tỷ lệ lạm phát thấp và môi trường kinh doanh thuận
lợi). Đây chính là yếu tố quan trọng nhất đóng góp vào thành công của
giai đoạn phát triển kinh tế ổn định bắt đầu từ năm 1993 đến nay – quãng
thời gian dài nhất trong hai thế kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Vương quốc Anh đã bỏ xa các quốc gia thuộc khu vực đồng Euro trong suốt
mười năm qua và một đồng bảng mạnh là minh chứng rõ ràng nhất cho điều
đó.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản
Nền
kinh tế Nhật Bản dựa rất nhiều vào xuất khẩu. Việc tỷ giá đồng nội tệ
quá cao và vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng là mối quan tâm rất lớn của
quốc gia này bởi tác động tiêu cực của nó lên hoạt động xuất khẩu. Đó
là lý do tại sao Ngân hàng trung ương Nhật Bản (Bank of Japan – BoJ) lại
sử dụng chính sách can thiệp trực tiếp hết lần này đến lần khác để kiềm
chế tỷ giá đồng yên (Ngân hàng này bán đồng yên ra thị trường để thu về
đô-la Mỹ và euro). Ngân hàng Nhật Bản cũng thực hiện chính sách can
thiệp thông qua các phát ngôn, các quan chức cấp cao của Nhật Bản luôn
tuyên bố rằng đồng Yên đang có giá trị quá cao, và những tuyên bố như
vậy luôn là một dấu hiệu rõ ràng đối với các định chế và cá nhân tham
gia thị trường Ngoại hối. Sự can thiệp bằng phát ngôn của các quan chức,
dù không đi đôi với hành động nhưng cũng có ảnh hưởng rất lớn tới thị
trường.
Chừng
nào điều lệ của Ngân hàng trung ương Nhật Bản còn ghi rõ rằng nó cần
phải đảm bảo sự ổn định giá cả cũng như toàn bộ hệ thống tài chính, mục
tiêu chính của nó vẫn sẽ là giảm lạm phát. Cuộc khủng hoảng bất động sản
những năm 1990 đã buộc Ngân hàng này phải cắt giảm lãi suất cơ bản tới
mức thấp kỉ lục 0.15%. Đây chính là chính sách vẫn thường được gọi là
lãi suất bằng không mà Ngân hàng Nhật Bản vẫn theo đuổi cho tới nay.
Người ta tin rằng Nhật Bản sẽ từ bỏ chính sách lãi suất bằng không này
ngay khi nền kinh tế Nhật Bản khôi phục lại được tốc độ tăng trưởng bình
thường. Chính sách lãi suất bằng không đã tiếp diễn trong năm năm liên
tục, nhưng vào tháng Ba năm 2006, nó tăng lên 0.5%. Ủy ban chính sách
tiền tệ của Ngân hàng trung ương Nhật Bản bao gồm 6 thành viên, không kể
Thống đốc Masaaki Shiraka và hai phó Thống đốc, nhóm họp một hoặc hai
lần mỗi tháng.
Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ
Không
giống các Ngân hàng trung ương khác, Ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ (SNB)
đặt ra một giới hạn trong đó lãi suất cơ bản có thể biến động trong từng
trường hợp cụ thể thay vì đưa ra một mức lãi suất cố định. Ngân hàng
Quốc gia Thụy Sĩ theo đuổi chính sách bảo thủ đối với vấn đề tăng lãi
suất do nền kinh tế Thụy Sĩ phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu (đồng nội
tệ mạnh không có lợi cho các nhà xuất khẩu). Mục tiêu chính thức của
Ngân hàng này là đảm bảo ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Thống
đốc Ngân hàng hiện tại là Jean-Pierre Roth. Hội đồng điều hành của Ngân
hàng gặp nhau một lần mỗi quý để thảo luận về chính sách tiền tệ.
Ngân hàng trung ương Canada
Ban
giám đốc của Ngân hàng trung ương Canada, Board of Directors – BoC, bao
gồm Thống đốc David Dodge và năm phó Thống đốc. Các nhân vật này nhóm
họp tám lần một năm để thảo luận và đưa ra quyết định liệu có thay đổi
chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương hay không. Năm 1998, Ngân
hàng này đặt mục tiêu đảm bảo lạm phát ở trong khoảng từ 1 đến 3% đồng
thời đảm bảo sự ổn định của đồng nội tệ. Điều này có nghĩa là tỷ lệ lạm
phát cao hay thấp hơn mục tiêu đề ra sẽ dẫn tới việc tăng hoặc giảm lãi
suất cơ bản.
Ngân hàng dự trữ Australia
Không
giống các ngân hàng trung ương khác, mục tiêu của Ngân hàng trung ương
Australia, Reserve Bank of Australia – RBA bao gồm nhiều nội dung hơn,
đó là đảm bảo sự ổn định của đồng nội tệ, việc làm đầy đủ cho công dân,
tăng trưởng kinh tế, và đảm bảo sự thịnh vượng về mặt kinh tế của quốc
gia. Để đạt được các mục tiêu đó, Ngân hàng này kiểm soát tỷ lệ lạm phát
trong khoảng 2-3%.
Ủy
ban chính sách tiền tệ của Ngân hàng dự trữ Australia bao gồm thống đốc
Ngân hàng Glen Steevens, Phó thống đốc, Bộ trưởng bộ Tài chính (tương
đối khác biệt và không phải thông lệ tại các quốc gia khác) và sáu thành
viên đại diện cho phe đa số trong Quốc hội do Chính phủ chỉ định. Ủy
ban này nhóm họp 11 lần một năm (vào thứ Ba đầu tiên hàng tháng trừ
tháng Một)
Ngân hàng dự trữ New Zealand
Không
giống các ngân hàng trung ương khác, quyết định về lãi suất cơ bản tại
Ngân hàng dự trữ New Zealand do một mình thống đốc đưa ra chứ không phải
là quyết định của tập thể. Thống đốc hiện thời của Ngân hàng này là
Alan Bollard. Tuy nhiên, bản thân quyết định này được đưa ra sau cuộc
họp của Ban điều hành. Cơ quan này nhóm họp 8 lần một năm. Mục tiêu của
Ngân hàng là đảm bảo tỷ lệ lạm phát trong giới hạn 1.5%. Đó là lý do vì
sao trong suốt thời kì nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, Ngân hàng này
buộc phải tăng lãi suất cơ bản lên mức 8.25%. Việc này giúp kiềm chế tỷ
lệ lạm phát ở một mức độ nhất định và cắt giảm thâm hụt tài khoản vãng
lai, tuy nhiên, việc này cũng làm tỷ giá đô-la New Zealand tăng nhanh do
sự khác biệt về lãi suất và hoạt động đầu cơ chênh lệch lãi suất (carry
trade).
Rõ
ràng, mục tiêu chính của mỗi ngân hàng trung ương là kiềm chế lạm phát ở
một giới hạn đã định trước. Nếu nó vượt quá giới hạn ngân hàng trung
ương sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ và nâng lãi suất cơ bản lên, còn
nếu tỷ lệ lạm phát thấp, điều thường xảy ra vào các thời kì kinh tế bị
đình trệ, ngân hàng trung ương sẽ giảm lãi suất để kích thích đầu tư và
phát triển kinh tế.
Các quỹ đầu tư
Rất
nhiều tổ chức, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu và các quỹ đầu tư bảo
hiểm rủi ro tham gia vào hoạt động đầu tư và đầu cơ theo nhiều cách khác
nhau trên thị trường Ngoại hối. Ví dụ, quỹ Quantum của tỷ phú George
Soros là một trong những quỹ đầu tư năng động nhất trên thị trường này.
Các tổ chức này cũng bao gồm cả các tập đoàn quốc tế thường đầu tư vào
nhiều quốc gia khác nhau bằng cách thành lập chi nhánh, công ty con hay
mở rộng sản xuất ra ngoài lãnh thổ một quốc gia, v.v)
Các ngân hàng thương mại
Thực
tế, việc xử lý tất cả các giao dịch ngoại hối đều được thực hiện bởi
các ngân hàng thương mại. Điều này giải thích lý do vì sao ta gọi thị
trường Ngoại hối là thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Các thành phần
tham gia vào thị trường đều tương tác với nhau thông qua ngân hàng theo
cách này hay cách khác. Phần lớn các tổ chức thanh toán bù trừ đều là
chính các ngân hàng hoặc chi nhánh của chúng. Các ngân hàng quốc tế như
Citibank, Barclays Bank, Deutsche Bank, Union Bank of Switzerland và
nhiều cái tên khác nữa xử lý các giao dịch trị giá hàng trăm triệu đô-la
mỗi ngày. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng thực hiện các giao dịch ngoại
hối vì lợi nhuận của chính mình. Các nhân viên thuộc bộ phận chuyên
trách của ngân hàng theo dõi các xu hướng của thị trường, đưa ra dự báo
và quản lý trạng thái ngoại tệ của ngân hàng mình. Dù các ngân hàng đều
có chính sách quản lý rủi ro rất chặt chẽ, họ vẫn tham gia vào các hoạt
động đầu cơ ngoại tệ
Bộ Phận Hỗ Trợ Online Nhà
Đầu Tư Mở Tài Khoản Kinh Doanh Vàng , Forex ( Ngoại hối ) Tại Forex.com . Liên
Hệ :
Tel : 093
8207 688
Yahoo messsenger :
Forex.com_Vietnam